Trước đây điều kiện khấu
trừ thuế giá trị gia tăng được hướng dẫn tại điều 15 của Thông tư
219/2013/TT-BTC nhưng bắt đầu từ năm 2015 được thực hiện theo khoản 10, điều 1
của Thông tư 26/2015/TT-BTC.
Theo thông tư này, Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào như sau:
1. Có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mua
vào hoặc chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu hoặc
chứng từ nộp thuế GTGT thay cho phía nước ngoài theo hướng dẫn của Bộ Tài chính
áp dụng đối với các tổ chức nước ngoài không có tư cách pháp nhân Việt Nam và
cá nhân nước ngoài kinh doanh hoặc có thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
Nhưng như
thế nào gọi là hoá đơn hợp pháp, các bạn xem thêm: Thếnào là hoá đơn hợp pháp, hợp lệ, hợp lý.
2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng, hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
3. Chứng từ thanh toán qua ngân hàng được hiểu là có
chứng từ chứng minh việc chuyển tiền từ tài khoản của bên mua sang tài khoản
của bên bán (tài khoản của bên mua và tài khoản của bên bán phải là
tài khoản đã đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế. Bên mua không cần phải
đăng ký hoặc thông báo với cơ quan thuế tài khoản tiền vay tại các tổ chức tín
dụng dùng để thanh toán cho nhà cung cấp) mở tại các tổ chức cung ứng dịch
vụ thanh toán theo các hình thức thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật
hiện hành như séc, uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi, uỷ nhiệm thu, nhờ thu, thẻ ngân
hàng, thẻ tín dụng, sim điện thoại (ví điện tử) và các hình thức thanh toán
khác theo quy định (bao gồm cả trường hợp bên mua thanh toán từ tài khoản
của bên mua sang tài khoản bên bán mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc bên
mua thanh toán từ tài khoản của bên mua mang tên chủ doanh nghiệp tư nhân sang tài
khoản bên bán nếu tài khoản này đã được đăng ký giao dịch với cơ quan thuế).
+ Các
chứng từ bên mua nộp tiền mặt vào tài khoản của bên bán hoặc chứng từ thanh
toán theo các hình thức không phù hợp với quy định của pháp luật hiện
hành không đủ điều kiện để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch
vụ mua vào từ hai mươi triệu đồng trở lên.
+ Hàng
hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn từ hai mươi triệu đồng trở lên theo
giá đã có thuế GTGT nếu không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì không
được khấu trừ.
+ Đối với
hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp có giá trị hàng hoá, dịch vụ mua từ hai
mươi triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hoá,
dịch vụ bằng văn bản, hoá đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân
hàng của hàng hoá, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá
trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do
chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê
khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường
hợp khi thanh toán, cơ sở kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
thì cơ sở kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu
trừ đối với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua
ngân hàng vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong
trường hợp cơ quan thuế và các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra,
kiểm tra kỳ tính thuế có phát sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ).
4. Các trường hợp thanh toán không dùng tiền mặt khác để khấu trừ
thuế GTGT đầu vào gồm:
a) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào theo phương thức
thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào với giá trị hàng hóa,
dịch vụ bán ra, vay mượn hàng mà phương thức thanh toán này được quy
định cụ thể trong hợp đồng thì phải có biên bản đối chiếu số liệu và xác nhận
giữa hai bên về việc thanh toán bù trừ giữa hàng hóa, dịch vụ mua vào với hàng
hóa, dịch vụ bán ra, vay mượn hàng. Trường hợp bù trừ công nợ qua bên thứ ba
phải có biên bản bù trừ công nợ của ba (3) bên làm căn cứ khấu trừ thuế.
b) Trường hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào theo phương thức bù trừ
công nợ như vay, mượn tiền; cấn trừ công nợ qua người thứ ba mà
phương thức thanh toán này được quy định cụ thể trong hợp đồng thì phải có hợp
đồng vay, mượn tiền dưới hình thức văn bản được lập trước đó và có chứng từ
chuyển tiền từ tài khoản của bên cho vay sang tài khoản của bên đi vay đối với
khoản vay bằng tiền bao gồm cả trường hợp bù trừ giữa giá trị hàng hóa, dịch vụ
mua vào với khoản tiền mà người bán hỗ trợ cho người mua, hoặc nhờ người mua
chi hộ.
c) Trường hợp hàng hoá, dịch vụ mua vào được thanh toán uỷ quyền
qua bên thứ ba thanh toán qua ngân hàng (bao gồm cả trường hợp bên
bán yêu cầu bên mua thanh toán tiền qua ngân hàng cho bên thứ ba do bên bán chỉ
định) thì việc thanh toán theo uỷ quyền hoặc thanh toán cho bên thứ ba theo chỉ
định của bên bán phải được quy định cụ thể trong hợp đồng dưới hình thức văn
bản và bên thứ ba là một pháp nhân hoặc thể nhân đang hoạt động theo quy định
của pháp luật.
Trường
hợp sau khi thực hiện các hình thức thanh toán nêu trên mà phần giá trị còn lại
được thanh toán bằng tiền có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên thì chỉ được khấu
trừ thuế đối với trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng.
d) Trường
hợp hàng hóa, dịch vụ mua vào được thanh toán qua ngân hàng vào tài khoản của
bên thứ ba mở tại Kho bạc Nhà nước để thực hiện cưỡng chế bằng biện pháp thu
tiền, tài sản do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ (theo Quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) thì cũng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Ví dụ
Công ty A
mua hàng của Công ty B và Công ty A đang còn nợ tiền hàng của Công ty B. Tuy
nhiên Công ty B đang còn nợ tiền thuế vào ngân sách nhà nước. Căn cứ Luật Quản
lý thuế, cơ quan thuế thực hiện thu tiền, tài sản của Công ty B do Công ty A
đang nắm giữ để thi hành quyết định hành chính thuế thì khi Công ty A chuyển
tiền vào tài khoản thu ngân sách cũng được coi là thanh toán qua ngân hàng, số
thuế GTGT đầu vào tương ứng với doanh số của hàng hóa mua vào được kê khai,
khấu trừ.
Ví dụ
Công ty C
thực hiện ký hợp đồng kinh tế với Công ty D về việc cung cấp hàng hóa và Công
ty D đang còn nợ tiền hàng của Công ty C.
Thực hiện
Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc yêu cầu thu toàn bộ số
tiền mà Công ty D đang còn nợ Công ty C để chuyển vào tài khoản của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mở tại Kho bạc Nhà nước để giải quyết “Tranh chấp hợp đồng
mua bán hàng hóa” giữa Công ty C và đối tác.
Khi Công
ty D chuyển trả số tiền vào tài khoản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (việc
chuyển tiền này không được quy định cụ thể trong hợp đồng mua bán giữa Công ty
C và Công ty D) thì trường hợp này cũng được coi là thanh toán qua ngân hàng,
số thuế GTGT đầu vào tương ứng với doanh số của hàng hóa mua vào được kê khai,
khấu trừ.
5. Trường hợp mua hàng hóa, dịch vụ của một nhà cung cấp có giá
trị dưới hai mươi triệu đồng nhưng mua nhiều lần trong cùng một ngày có tổng
giá trị từ hai mươi triệu đồng trở lên thì chỉ được khấu trừ thuế đối với
trường hợp có chứng từ thanh toán qua ngân hàng. Nhà cung
cấp là người nộp thuế có mã số thuế, trực tiếp khai và nộp thuế GTGT.
Trường
hợp người nộp thuế là cơ sở kinh doanh có các cửa hàng là các đơn vị phụ thuộc
sử dụng chung mã số thuế và mẫu hóa đơn của cơ sở kinh doanh, trên hoá đơn có
tiêu thức “Cửa hàng số” để phân biệt các cửa hàng của cơ sở kinh doanh và có
đóng dấu treo của từng cửa hàng thì mỗi cửa hàng là một nhà cung cấp.”
0 nhận xét:
Đăng nhận xét